• Giới thiệu
  • Chính sách bảo mật
  • Liên hệ
  • TRANG CHỦ
  • KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
    • TIỂU HỌC
    • THCS
      • LỚP 6
      • LỚP 7
      • LỚP 8
      • LỚP 9
    • THPT
      • LỚP 10
      • LỚP 11
      • LỚP 12
    • LUYỆN THI ĐẠI HỌC
  • TIN GIÁO DỤC
  • KỸ NĂNG
  • KHO TƯ LIỆU
    • VĂN BẢN MỚI
    • VIDEO HỌC TẬP
    • GIÁO ÁN GIẢNG DẠY
    • PHẦN MỀM TIN HỌC
    • TÀI LIỆU HỌC TẬP
No Result
View All Result
TỰ HỌC TOÁN
No Result
View All Result
Home KHO TƯ LIỆU

Sự khác nhau giữa triết học phương đông và phương tây cổ đại

by Thảo Vy
11/07/2022
in KHO TƯ LIỆU, TÀI LIỆU HỌC TẬP
0
0
SHARES
181
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

Sự khác nhau giữa triết học phương đông và phương tây cổ đại

Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây  và phương Đông còn được thể hiện cụ thể như sau:

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Thông tư 29 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) quy định về dạy thêm, học thêm

Câu trắc nghiệm đúng sai đơn điệu và cực trị của hàm số-Toán 12

Thông báo chia sẻ Toàn bộ drive tài liệu môn Toán 8 và Toán 11 mới 2023-2024

Đáp án trắc nghiệm mô đun 8 THPT -30 câu trắc nghiệm

Thứ nhất đó là triết học phương Đông nhấn mạnh  sự thống nhất trong mối quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”. Cụ thể là:

Triết học Trung quốc là nền triết học  có  truyền thống lịch  sử lâu đời nhất, hình thành cuối thiên niên kỷ  II  đầu thiên niên kỷ    I trước công nguyên. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển của những quan điểm của nhân dân Trung hoa về tự  nhiên, xã  hội và  quan hệ  con người với thế  giới xung quanh, họ  coi con người là tiểu vũ trụ trong hệ thống lớn… trời  đất với ta cùng sinh,  vạn  vật  với  ta  là  một.  Như  vậy  con  người cũng chứa

 

đựng tất cả những tính chất, những điều huyền bí  của  vũ  trụ  bao  la. Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các khuynh hướng như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan  vầ trong ý niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn nữa. Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan mà chỉ cần suy xét  ở  trong tâm,  “tận  tâm” của  mình mà thôi. Như vậy theo ông chỉ  cần tĩnh tâm quay  lại  với chính mình thì mọi sự vật đều yên  ổn,  không có  gì  vui  thú  hơn.  Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ  trong lòng ta, lòng ta là vũ  trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ – kinh dịch thì biết đến cùng cái t ính của con người thì cũng có thể biết đến cái tính của   vạn vật, trời đất: trời có chín phương, con người có chín khiếu. ở phương Đông khuynh hướng duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn đan xen với duy tâm, mặc dù nó là kết quả của quá  trình  khái quát  những kinh nghiệm thực tiến lâu dài của nhân dân Trung hoa thời cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện rõ  ở  học  thuyết  Âm dương,  tuy nó  còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ   và có những quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học này đã bộ lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về  cơ  cấu  và sự vận động, biến hoá của sự  vật hiện tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội.

ở ấn độ tư tưởng triết học ấn độ cổ đại  được hình thành từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần mang tính chất tự nhiên, có nguồn gốc từ

 

những hình thức tôn giáo tối cổ của nhân loại. ở ấn độ nguyên tắc “thiên nhiên hợp nhất” lại có màu sắc riêng như:

Xu hướng chính của Upanishad lànhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn giáo trong kinh Vêđa về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối cao” sángtạo và chi phối thế giới này.  Để trả lời câu hỏi cái gì là thực tại cao nhất, là căn nguyên của  tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi  cái còn  lại  và có thể giải thoát được l inh hồn khỏi sự lo âu khổ nào của đời sống trần tục và ràng buộc của thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, là thực thể duy nhất, có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra  và  nhập về với nó sau khi chết. Tóm lại Brahman là tinh thần vũ trụ, là đấng sáng tạo duy nhất, là đại ngã, đại đinh, là vũ trụ xung quanh cái tồn tại thực sự, là khách thể.

Còn Atman là tinh thần con người, là t iểu ngã, là cái có  thể mô hình hoá, là chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn  vũ  trụ c ư  trú trong con người mà  thôi. Linh hồn  con người ( Atman) chỉ là   sự biểu hiện, là một bộ phận của “tinh thần tối  cao”. Vì  Atman  “linh hồn” là  cái tồn tại trong thể xác con người ở đời sống trần tục, nên ý thức  con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là  cái khác với “linh hồn vũ trụ”, khác  với nguồn sống  không  có sinh, không có diệt vong của vũ trụ.

Vậy nên kinh Vêđa nối con người với vũ trụ bằng cầu khẩn, cúng tế bắt chước hoà điệu của  vũ trụ bằng lễ nghi, hành lễ ở hình thức bên ngoài.  Còn  kinh  Upanishad quay  vào  hướng nội để đi từ trong ra, đồng nhất cá nhân với vũ trụ bằng tri thức thuần  tuý kinh nghiệm.

Đối với  phương Tây lại nhấn mạnh tách con người ra  khỏi  vũ trụ, coi con người là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục

 

vũ trụ – thế giới khách quan. Và cũng  chính  từ  thế  giới  khách quan khách nhau nên dẫn đến hướng nghiên cứu tiếp cận  cũng  khác nhau:

Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều đặc điểm khác của  triết học phương Đông như: lấy con người làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội; hay như nghiên cứu thế giới cũng là để làm rõ  con người và vấn đề bản thảo luận trong triết học phương Đông bị mờ nhạt. Nhưng ngược lại triết học phương Tây lại đặ trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên phương Tây bàn đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.

Cái khác biệt nữa là ngay  trong  vấn  đề  con  người phương Đông cũng quan niệm khác phương Tây:

ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với người và đời sống  tâm  linh,  ít  quan  tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay  ác theo lập trường của giai cấp trống trị cho nên nghiên cưú con người không phải là để giải phóng con người mà là để cai trị con người, không thấy quan hệ giữa người với  người  trong lao  động sản xuất.

ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao cái tự nhiên –  mặt  sinh  vật  trong con  người,  chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc để giải phóng con người.

Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết  học ít khi tồn tại dưới dạng thuần tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để

 

tồn tại và phát triển cho nên ít có những triết gia  với  những tác phẩm triết học độc lập. Và có những thời kỳ  người  ta  đã  lầm  tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Trung hoa  đan xen với chính trị lý luận, còn triết học ấn độ lại đan xen tôn  giáo với nghệ thuật. Nói chung ở phương  Đông  thì  triết  học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.

ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu  triết học  đã là một khoa học học độc lập với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình: khoa học muốn tồn tại phải khoác áo tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo hội.

Thứ ba, Lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những  bước nhảy vọt về chất có tính  vạch ra  ở  các thời  điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen  kẽ.  ở  ấn  độ,  cũng  như  Trung quốc các trường phái có từ thời cổ đại vẫn giữ nguyên tên  gọi cho  tới ngày nay (từ thế kỷ VIII –  V  trước công nguyên  đến  thế  kỷ  19).

Nội dung có phát triển nhưng chỉ  là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết như: Nho tiền tần,  Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở nhân – lễ – chính danh, nhưng  có cải biên về một phương diện nào đó ví như Lễ thời tiền Tần là  cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến thành tam cương ngũ thường, đời Tống biến thành chữ Lý…

Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình  trong khuôn khổ  ủng hộ, bảo vệ quan điểm hay một hệ  thống nào   đó để hoàn thiện và phát triển nó hớn là vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thức triết học mới. Do vậy nó không mâu thuận với các học thuyết đã được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc đấu tranh trong

 

các trường phái không gay gắt và cũng không triệt đêt.  Có tình trạng đó chính là do chế  độ phong kiến quá kéo dài và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên nhau.

Ngược lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại  có  những trường phái mới ra đời có  tính  chất vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường phái Talét, Hêraclit… đến Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh, Hà lan, triết học cổ điển Đức… Và hơn nữa cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật  mang  tính chất quyết liệt, triệt để hơn.

Thứ tư, Sự phân chia trường phái triết học cũng khác:

 

ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng, siêu hình không rõ nét.  Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội dung cụ thể thường là có mặt  duy tâm có mặt duy vật, sơ  kỳ  là  duy vật, hậu kỳ  là  nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ  thế giới quan  thiếu nhất quán, thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông cũng không mạch lạc như phương Tây.

Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét hơn và các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ  đến  duy  vật  siêu  hình rồi  đến duy vật biện chứng.

Thứ năm, Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cung khác so với triết học phương Tây ở 3 mảng:

  • Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản thể”, “vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo sắc, hình, vạn pháp,… hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ… Để nói về

 

bản chất của vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và  vũ  trụ thì phương Tây dùng phạm  trù khách thể – chủ thể; con người với tự  nhiên, vật  chất với ý thức, tồn tại và  tư duy.  Còn phương Đông  lại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần. Trong đó  hình thần là  những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.

  • Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới: phương Tây dùng thuật ngữ “biện chứng” siêu hình, thuộc t ính,  vận động, đứng im  nhưng lấy cái  đấu  tranh cái động  là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, lấy cái tĩnh  làm gốc  là  vì  phương Đông triết học  được xây dựng trên quan điểm vũ  trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
  • Khi diễn đạt về mối l iên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn phương Đông dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng xuất phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả  phải  mang tính nhịp điệu, tính quy luật, tính soắn ốc của vũ  trụ như thái cực đến lưỡng nghi… Có nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp  khổng lồ  các  soắn ốc…

Thứ sáu, Tuy cả hai dòng triết  học  phương  Đông  và phương Tây đều nhằm giải quyết vấn đề cơ bản  của  triết  học  nhưng phương Tây nghiêng nặng về giải quyết mặt thứ nhất còn  mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn đề có liên quan. Ngược lại ở

 

phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai cho nên dẫn đến hai phương pháp tư duy khác nhau.

Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nênlà tư duy tất định – tư duy vật lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn phương Đông đi từ  khái  quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với những cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào cũng được,  nó  gói  được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học  gọi  là  khoa  học  hỗn  mang – dự báo.

Trên đây là một vài điểm khác biệt căn bản giữa triết học phương Đông và phương Tây mà chúng ta có thể nhận thấy, ngoài ra chúng còn có nhiều điểm khác biệt với nhau nữa mà trong thời gian có hạn tôi có thể chưa tìm ra được.

10 Tiểu luận triết học phương Tây

Để bài tiểu luận tiết học được đánh giá tốt và đạt điểm số cao, bạn cần phải thực hiện theo những yêu cầu dưới đây:

  • Bố cục bài tiểu luận được trình bày một cách hợp lý, bài bản và có tính khoa học theo tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin
  • Bài tiểu luận thể hiện đầy đủ kiến thức được truyền dạy và những vận dụng thực tế cần được trình bày.
  • Cần ứng dụng triết học vào những vấn đề cấp bách trong thực tiễn nổi trội như kinh tế, xã hội, chính trị,… của nước ta để tăng tính thuyết phục và tăng giá trị của triết học.
  • Đưa ra phương hướng, giải pháp và kiến nghị để khắc phục, giải quyết các vấn đề đang diễn ra trong thực tiễn đã được phân tích trước đó.

Một số mẫu đề tài tiểu luận triết học sau đại học được chia sẻ bên dưới sẽ giúp ích rất nhiều cho bạn, đồng thời bạn cũng có thể lấy đó làm ý tưởng để tìm hiểu và download tiểu luận triết học cao học để tham khảo kỹ càng.

10 Tiểu luận triết học phương Tây

  1. Triết học Hy lạp cổ đại và Triết học Phương tây cổ đại
  2. Vấn đề bản thể luận trong một số trào lưu triết học phương tây hiện đại.
  3. Triết học phương Tây hiện đại với những hạn chế của triết học duy lý truyền thống.
  4. Quan niệm về bản chất con người trong triết học mars và một số trào lưu triết học phương tây hiện đại.
  5. Chủ nghĩa duy ý chí và vai trò của nó đối với triết học phương Tây hiện đại.
  6. Tiểu luận tư tưởng con người, xã hội trong triết học phương tây cổ đại tới cận đại .
  7. Sự giống nhau và khác nhau giữa triết học phương đông cổ đại và phương tây cổ đại.
  8. Những giá trị tích cực và hạn chế còn tồn tại của triết học duy vật ở Hy Lạp cổ đại.
  9. Bản thể luận và cách tiếp cận bản thể luận trong triết học phương Tây.
  10. Những tư tưởng triết học của Platon và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại
  11. Triết học phương Tây cổ đại: Bản thể luận trong triết học của trường phái Mile và Heraclite
  12. Quan niệm về con người trong triết học Phương Tây hiện đại

10 Tiểu luận triết học phương Tây- TÀI LIỆU WORD

Tags: LUẬN VĂN-TIỂU LUẬN
Previous Post

Tiểu luận triết học về con người và môi trường

Next Post

Tiểu luận về triết học Mác-Lênin

Next Post

Tiểu luận về triết học Mác-Lênin

THÔNG BÁO

THÔNG BÁO CHIA SẺ TÀI LIỆU FILE WORD

Website tuhoctoan.edu.vn thông báo chia sẻ toàn bộ DRIVE bộ tài liệu môn toán 8 và Toán 11 do ban biên tập biên soạn,tổng hợp. Nguồn tài liệu uy tín, đầy đủ, đa dạng về dạy thêm, dạy chính khóa, các chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi, đề kiểm tra, giáo án Word, powerpoint.. Tài liệu 100% file word có lời giải chi tiết. Đặc biệt tài liệu cập nhập mới theo 3 bộ sgk mới hiện nay.

Xem chi tiết quyền lợi khi tham gia bộ tài liệu Tại đây

Thầy cô có nhu cầu tải tài liệu về xin vui lòng liên hệ Ban biên tập web, để cấp quyền tải tài liệu về. <\br>☎️/Zalo Mr. Dũng: 0985 029 569 zalo-icon

XEM THỬ

BÀI VIẾT PHỔ BIẾN

KHO TƯ LIỆU

Thông tư 29 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) quy định về dạy thêm, học thêm

by Thảo Vy
19/01/2025
0

Thông tư 29 về dạy thêm học thêm Thông tư 29 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) quy...

Read more

Thông tư 29 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) quy định về dạy thêm, học thêm

Xác suất có điều kiện và công thức nhân xác suất

Câu trắc nghiệm đúng sai đơn điệu và cực trị của hàm số-Toán 12

Ma trận cuối kì 1 Toán 11 Cánh diều có bảng đặc tả kỹ thuật

Ma trận cuối kì 1 Toán 11 chân trời sáng tạo có bảng đặc tả kỹ thuật

Ma trận cuối kì 1 Toán 11 kết nối tri thức có bảng đặc tả kỹ thuật

Load More

BÀI VIẾT NỔI BẬT

Bài tập lũy thừa bậc n của ma trận giải hệ phương trình đại số

by Thảo Vy
05/10/2021
0

Bài toán thực tế parabol có lời giải chi tiết-Toán 10 chương trình mới

by Thảo Vy
11/12/2022
0

Đề chính tả lớp 1-Bộ đề chính tả phát triển năng lực học sinh

by Thảo Vy
13/04/2022
0

Thẻ

bài tập chương 1 hình 12 bài tập chương 1 đại số 10 bài tập chương 4 đại số 10 bài tập nguyên hàm-tích phân-ứng dụng bài tập toán 6 bài tập toán 7 bài tập toán 8 bài tập toán 9 bài tập toán 10 bài tập toán 11 bài tập đại số tuyến tính chương 1 giải tích 12 chương 2 giải tích 12 chương 2 đại số 10 chương 3 toán 10 Cities các chuyên đề toán 8 giáo án Powerpoint giải tích hàm hình 12 mô hình toán kinh tế phương pháp tối ưu sách giáo khoa số phức thể tích khối chóp tiếng anh lớp 4 tiếng anh lớp 7 tiếng việt lớp 1 tiếng việt lớp 3 toán 6-chương 1 tập hợp sớ tự nhiên toán lớp 1 toán lớp 5 trắc nghiệm mô đun 4 van lớp 2 ôn thi đại học đè thi giữa kì 1 toán 6 đè thi giữa kì 1 toán 7 đè thi giữa kì 1 toán 11 đại số tuyến tính đề thi giữa kì 1 toán 10 đề thi giữa kì 2 toán 10 đề thi giữa kì 2 toán 12 đề thi học kì 1 toán 10 đề thi học kì 1 toán 11 đề thi học kì 1 toán 12

GIỚI THIỆU

TỰ HỌC TOÁN

Tuhoctoan.edu.vn là một thư viện online chia sẻ tài liệu miễn phí nhiều lĩnh vực như: hướng dẫn học tập, giáo án bài giảng, đề thi đáp án, biểu mẫu, ...

TIN MỚI

Thông tư 29 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) quy định về dạy thêm, học thêm

19/01/2025

Xác suất có điều kiện và công thức nhân xác suất

18/01/2025

Câu trắc nghiệm đúng sai đơn điệu và cực trị của hàm số-Toán 12

01/06/2024
ĐĂNG KÝ NHẬN TIN
Newsletter Form (#3)


  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Liên hệ

© 2022 GIa Khang

TỰ HỌC TOÁN
No Result
View All Result
  • TRANG CHỦ
  • KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
    • TIỂU HỌC
    • THCS
      • LỚP 6
      • LỚP 7
      • LỚP 8
      • LỚP 9
    • THPT
      • LỚP 10
      • LỚP 11
      • LỚP 12
    • LUYỆN THI ĐẠI HỌC
  • TIN GIÁO DỤC
  • KỸ NĂNG
  • KHO TƯ LIỆU
    • VĂN BẢN MỚI
    • VIDEO HỌC TẬP
    • GIÁO ÁN GIẢNG DẠY
    • PHẦN MỀM TIN HỌC
    • TÀI LIỆU HỌC TẬP

© 2022 GIa Khang