TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT
I. SỰ HÌNH THÀN H VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO
1. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo Trung Quốc
Khổng Tử là người sáng lập học thuyết Nho giáo ở Trung Q uốc. H ơn hai 2000 năm qua, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng đối với Trung Quốc không chỉ về chính trị, văn hoá…mà còn thể hiện trong hành vi và phương thức tư duy của mỗi người dân Trung Q uốc, được xem như tư tưởng tôn giáo của Trung Q uốc, là tư tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở Trung Quốc và có sự ảnh hưởng tới một số nước châu Á (trong đó có Việt N am), và đến nay sự ảnh hưởng này đã ra toàn thế giới, vì người Trung Q uốc sống khắp nơi trên thế giới. Hiện nay đã có hơn 40 học viện Khổng Tử trên toàn thế giới.
Khổng Tử sống trong thời xuân thu, thời kỳ này thể chế quốc gia thống nhất bị phá vỡ, sản sinh ra nhiều nước Chư hầu lớn nhỏ. Khổng Tử sinh sống trong nước Lỗ là nước có nền văn hóa tương đối phát triển lúc đó. Tại sao học thuyết của K hổng Tử lại chiếm vị thế thống trị trong thời đại phong kiến Trung Quốc? Đây là vấn đề không dễ giải thích trong một vài câu. N ói một cách đơn giản là tư tưởng đẳng cấp nghiêm ngặt và tư tưởng chính trị của ông p hù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, có lợi cho ổn định xã hội lúc bấy giờ, xúc tiến xã hội phát triển. K hổng Tử nhấn mạnh qui phạm và trật tự luân lý nghiêm ngặt, cho rằng nếu làm trái với cấp trên hoặc trái với cha mẹ đều là tội nghiêm trọng. Theo lý luận này, vương quân phải quản lý tốt đất nước, thường dân phải trung thành với vương quân. Mỗi người đều có nhiều thân phận, có thể là con, có thể là cha, có thể là thần…nhưng đều cần phải duy trì ranh giới nghiêm khắc. Như vậy nhà nước mới thái bình, nhân dân mới có cuộc sống yên ổn.
Thời X uân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. H ọc trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh
Tử. Thời kỳ này N ho giáo bị chia thành 8 phái, trong đó có phái của Tuân Tử và phái của Mạnh Tử là mạnh nhất. Tuân Tử (315- 230 TCN) phát triển Nho giáo theo xu hướng duy vật, còn Mạnh Tử (372-298 TCN) phát triển Nho giáo theo hướng duy tâm. Họ bất đồng nhau trong việc lý giải bản tính con người. Tuy nhiên, Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nho giáo nguyên thuỷ. Từ K hổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo Tiên Tần (trước đời Tần).
Đến triều Hán Vũ Đế (140 – 87 TCN ), N ho giáo được đưa lên ngôi vị “độc tôn”. Nhưng về thực chất, đây không còn là thứ N ho giáo thời Tiên Tần nữa, mà là một thứ “N ho giáo cải biên” do Đổ
ng Trọng Thư (179 – 104 TCN) thiết kế, nhằm lấy đó làm chỗ dựa để thống nhất tư tưởng hiện đang năm bè bảy phái của người Trung Q uốc hồi bấy giờ. Trên đại thể, thứ N ho giáo mới này bao gồm ba thành tố : “âm dương ngũ hành”, “vương quyền thần thụ” và “tam cương ngũ thường”.
Tư tưởng “âm dương ngũ hành” như ta biết, vốn rất thịnh hành vào thời Hán. Lợi dụng tình hình này, Đổng Trọng Thư đã đem tư tưởng “thiên mệnh”, tư tưởng “thiên nhân cảm ứng”, cùng tư tưởng “tông pháp” của Nho giáo nguyên thuỷ nhào nặn với tư tưỏng “âm dương ngũ hành” để làm nên thuyết “vương quyền thần thụ”. “Vương quyền” (quyền lực nhà vua) ở đây được Đ ổng Trọng Thư luận chứng như là do “Trời” (thần) ban cấp. Trời là chủ tể của muôn loài, mà vua (Hoàng đế) là con của Trời (Thiên tử), người thể hiện quyền lực và ý chí của Trời, thay mặt Trời để cai trị nhân gian. Quyền lực của nhà vua do vậy cũng được xem như tối thượng, thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Mặt khác, Khổng Tử từng nói “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Đổng Trọng Thư đã đem nguyên tắc ứng xử này lồng ghép với quan niệm thần học “dương tôn, âm ti ” để thành thuyết “tam cương ngũ thường”. “Tam cương” (quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương) là phỏng theo mối quan hệ giữa trời và đất, âm và dương, trong đó bề tôi, con cái, thê thiếp đều thuộc “âm” ; còn vua, cha, chồng đều thuộc “dương” ; “âm” tất yếu phải theo “dương”.
“N gũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) là năm chuẩn mực về đạo đức tương ứng với “ngũ hành”, lấy “tam cương” làm nền tảng. Đổng Trọng Thư coi “tam cương ngũ thường” là “ý trời” (thiên ý), và cho rằng “Trời không thay đổi, đạo cũng không thay đổi” (Thiên bất biến, đạo diệc bất biến). Từ đó về sau, “tam cương ngũ thường” đã trở thành gông cùm về mặt tinh thần đối với người dân Trung Quốc.
Nho giáo thời kỳ này được gọi là H án Nho. Đ iểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”.
Thời kỳ, Tống N ho do Chu Đ ôn Di (1017 – 1073), Thiệu Ung (1011 – 1077), Trình Hiệu (1032 – 1085), Trình Di (1033 – 1107), Trương Tải (1020 – 1077) đều là người Bắc Tống khai sáng, và tiếp đó được Chu Hy (1130 – 1200) người Nam Tống tập đại thành. So với Nho giáo nguyên thuỷ thời Tiên Tần và Nho giáo thần hoá thời Lưỡng H án thì Lý học đời Tống có thể gọi là một thứ Nho giáo phát triển, mang đậm tính tư biện và triết lý. Khi luận chứng về tính tất yếu của cương thường danh giáo, các nhà Tống N ho đã vất bỏ lập luận “vương đạo thông tam” có phần đơn giản và thô thiển của Đổng Trọng Thư. Thay vào đó, họ đưa ra khái niệm “thiên lý” siêu hình để nói về tính thống nhất của thế giới tự nhiên và các hiện tượng xã hội. Họ nhấn mạnh thế giới hiện tượng có một nguyên nhân cuối cùng là “thiên lý”. Phạm trù cốt lõi này là một sáng tạo của Tống Nho, như chính một nhân vật quan trọng trong số họ đã tự nhận : “Cái học của ta tuy có chỗ tiếp thu từ nơi này nơi khác, nhưng riêng hai chữ “thiên lý” thì thực do tự ta thể nhận ra” (Trình H ạo ngữ. Nhị Trình ngoại thư, Q. 12).
Sang đời M inh, Vương Thủ Nhân (1472 – 1529) xuất hiện với tư cách một nhà triết học “đi ngược lại truyền thống” (phản truyền thống). K hác với Tống Nho, ông cho rằng cái “lý” của muôn sự muôn vật đều ở trong tâm ta. Và cũng không giống với các nhà Lý học Trình Chu, ông chủ trương : “hiểu biết và hành động gắn với nhau làm một”. Dù vậy, Vương Thủ Nhân vẫn đứng trong hàng ngũ những nhà “Lý học” nổi tiếng đương thời, các triết thuyết của ông đã góp phần
làm cho Nho giáo thời kỳ Tống Minh trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội Trung Quốc kể từ đầu đời Minh cho đến cuối đời Thanh.
2. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo Việt Nam
- Nho giáo Việt Nam từ buổi đầu du nhập- đến hết thế kỷ XIV
Vào cuối thời Tây Hán và đầu thời Đông Hán, cùng với chính sách cai trị và “H án hóa” vùng đất nước cổ Việt Nam thời đó gọi là G iao Chỉ, Cửu Chân, văn hóa H án bắt đầu được truyền bá vào Việt N am, với tên tuổi hai viên quan mà sử sách Việt Nam cũng như sử sách Trung Q uốc đều ca ngợi họ có công lao trong việc “khai hóa” lễ nghĩa, mở mang phong tục mới…là Tích Quang và Nhâm Diên. Nho giáo là một thành phần của văn hóa H án, tất nhiên cũng sớm có mặt tại Việt N am như là một công cụ H án hóa nước Việt. N hưng sự hiện diện tương đối rõ nét của N ho giáo ở nước ta có lẽ chỉ thật sự bắt đầu vào cuối đời Đông Hán với vai trò tích cực của Sĩ Nhiếp (187-226 Cn) trong việc làm cho nước ta “thông thi thư, tập lễ nhạc” như sử thần N gô Sĩ Liên (thế kỷ X V) từng bình luận trong sách Đại Việt sử ký toàn thư.
Ở Trung Q uốc từ sau loạn Vương Mãng (năm 27 tr.Cn) trở đi tới cuối đời Đông Hán, rất đông sĩ phu nhà H án liên tục tránh nội nạn chạy sang cư trú ở Việt Nam. Thí dụ vào thời Sĩ Nhiếp có hàng trăm danh sĩ nhà Hán bỏ sang Việt N am nương nhờ Sĩ N hiếp. N hững sĩ phu trí thức này trở thành lực lượng quan trọng trong quá trình truyền bá N ho giáo ở Việt N am.
Từ thời Tích Quang-Nhâm Diên rồi Sĩ Nhiếp đến trước đời Đường (618- 907Cn), Nho giáo được truyền bá sang Việt Nam là H án nho.
Từ thời Tùy-Đường thống trị Việt Nam đến khi N gô Quyền giành lại được quyền độc lập năm 938, N ho giáo cùng văn hóa H án vẫn tiếp tục được truyền bá sang Việt Nam, nhưng trong mấy trăm năm này, diện mạo N ho giáo như thế nào sử sách không ghi chép. Trong khi đó ở Giao Châu (tức là ở Việt Nam) mà nhà Đường đổi làm An Nam đô hộ phủ, Phật giáo phát triển mạnh mẽ, kết hợp với Đạo giáo phù thủy phổ biến tràn lan.
Trong hàng nghìn năm bị lệ thuộc phong kiến phương Bắc, N ho giáo được đưa vào Việt Nam chủ yếu với tư cách là công cụ phục vụ cho chính sách cai trị và đồng hóa Việt N am về văn hóa, nghĩa là người Việt N am tiếp nhận Nho giáo vẫn với thái độ thụ động.
Nho giáo chỉ được người Việt Nam chủ động thừa nhận như là một văn hóa chủ thể và xác lập địa vị cao của nó khi nền độc lập dân tộc được hoàn toàn ổn định vững chắc và đi vào phục hưng dân tộc ở vương triều Lý bắt đầu từ năm 1010 – năm triều Lý dời đô từ H oa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội ngày nay).
Năm 1070, dưới thời Lý Thánh Tông (1054-1072), triều đình cho xây miếu
thờ K hổng Tử, tức Văn miếu, đắp tượng K hổng Tử, phụ thờ Nhan Uyên, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử là 4 học trò nổi tiếng của Khổng Tử cùng 72 người học trò giỏi khác của Khổng Tử, định ra nghi lễ bốn mùa cúng tế. Bên cạnh đó là Quốc tử giám, nơi các hoàng thái tử đến học tập.
Năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông (1072-1128) triều đình cho mở
khoa thi Minh kinh bác sĩ và thi N ho học tam trường.
Hai sự việc này trở thành cái mốc quan trọng đánh dấu một bước phát triển có ý nghĩa lịch sử đối với vai trò của N ho giáo trong đời sống văn hóa, giáo dục ở Việt Nam.
Khổng miếu và Quốc tử giám được xây dựng chính thức mở đầu cho nền giáo dục và khoa cử N ho học ở Việt N am, nhưng dưới triều Lý (1010-1225) và triều Trần (1225-1400), Phật giáo giữ vai trò Quốc giáo. Bộ mặt văn hóa Việt Nam thời Lý – Trần là văn hóa Phật giáo.
Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn cuối triều Trần và triều Hồ (1400-1407) là Tống Nho, song diện mạo tư tưởng chưa thật rõ nét.
Tóm lại, N ho giáo được truyền bá vào Việt Nam trong hàng ngàn năm Bắc thuộc, chủ yếu là H án nho. Từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ X V, Tống N ho chi phối ảnh hưởng ở Việt Nam. Nhưng nhìn chung, N ho giáo ở Việt Nam trong suốt
thời kỳ dài hơn 1000 năm đó, H án Nho cũng như Tống Nho, diện mạo tư tưởng đều chưa được thể hiện rõ nét.
2.2 Nho giáo Việt Nam từ thế kỷ XV- đến đầu thế kỷ XX
Năm 1406, đế quốc M inh đem quân xâm lược Việt Nam. Năm 1407, cuộc kháng chiến của triều Hồ thất bại. N hà Minh đổi nước Việt thành quận Giao Chỉ, rồi chia ra phủ, vệ, thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành đồng hóa mạnh mẽ. Nhằm Hán hóa Việt N am về văn hóa, tư tưởng, nhà Minh cho lập Văn miếu thờ Khổng Tử ở các phủ, châu, huyện trên toàn quốc và bắt các địa phương xây nhiều đền miếu thờ cúng, cầu đạo theo nghi lễ Trung Q uốc. Đạo sĩ thầy cúng được khuyến khích hành nghề khắp nơi. Để đào tạo ra những người biết chữ phục vụ bộ máy thống trị của nhà M inh tại Việt N am, nhà M inh cho mở trường ở các phủ, châu, huyện. Mở trường dạy học nhưng không có thi cử. H àng năm, quan lại đô hộ nhà Minh chỉ lựa chọn lấy một số học sinh đủ tiêu chuẩn rồi sử dụng.
Nội dung chương trình dạy và học hoàn toàn theo sách giáo khoa của nhà Minh, gồm có Tứ thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, Đại học), Ngũ kinh (K inh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu) và Tính lý đại toàn, tức là bộ sách do nhóm Hồ Q uảng theo lệnh vua Minh soạn, gồm 70 quyển, thâu thái thuyết Tống N ho bàn về hơn 100 nhà, chia thành môn loại như lý khí, quỷ thần, tính lý, thánh hiền…
Những sách vở này được chở từ Trung Q uốc sang Việt N am cấp phát cho các thôn, huyện. Giảng dạy tại các trường học ở phủ, châu, huyện, chủ yếu là thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ được nhà Minh tuyển dụng, phong làm Giáo quan.
Sau khi đánh đuổi hết quân Minh, giải phóng đất nước, vương triều Lê
chính thức được thiết lập (1428) và bắt đầu công việc xây dựng, phát triển nền văn hóa độc lập dân tộc.
Việc đầu tiên Thái Tổ Lê Lợi (1428-1433) làm là sai quan đi tế các thần linh ở núi sông, đền miếu ở các xứ trong nước và lăng tẩm của các triều đại
trước. Lê Thái Tổ đặc biệt quan tâm đến việc phong thần, muốn mượn uy danh thần linh bảo vệ vương triều và đất nước được bình yên.
Năm Đ inh Tỵ (1437), Lê Thái Tông (1434-1442) tiến hành gia phong các thần linh trong nước và tổ chức tế lễ, khấn cáo long trọng. Đ ến thời Lê Nhân Tông (1443-1459) năm Kỷ Tỵ (1449), triều Lê cho lập các đàn thờ Đại thành hoàng ở kinh thành Thăng Long, thờ thần Gió, thần Mây, thần M ưa, thần Sấm để bảo vệ kinh thành.
Một mặt tôn thờ thần linh, mặt khác để thống nhất tư tưởng xã hội, thống nhất văn hóa, củng cố đời sống tinh thần, nhà Lê đã chủ động chọn Nho giáo làm ngọn cờ tư tưởng của vương triều phục vụ cho công cuộc xây dựng chế độ phong kiến trung ương tập quyền.
Lê Thái Tông lên ngôi năm Giáp Dần (1434). Thái Tông đã họp triều đình bàn định việc mở khoa thi Tiến sĩ và đưa ra điều lệ thi Hương, thi H ội cùng phép thi ở các kỳ. Nhưng phải tới tháng 3 năm N hâm Tuất (1442), thời Lê N hân Tông, triều Lê mới chính thức cho thi đối sách ở sân điện để lấy Tiến sĩ và cũng bắt đầu cho dựng bia khắc văn nói về việc mở khoa thi Tiến sĩ, khắc tên những người đỗ Tiến sĩ. K hoa thi Tiến sĩ năm Nhâm Tuất là cái mốc quan trọng xác lập vị trí độc tôn của N ho giáo ở Việt Nam hồi thế kỷ XV. Để tỏ rõ lòng tôn sùng Nho giáo, vào tháng 2 mùa xuân năm Ất Mão (1435), vua Lê Thái Tông cho chọn ngày Thượng đinh, sai Thiếu bảo Lê Q uốc Hưng làm lễ cúng Khổng Tử ở Văn miếu, vị tổ khai sáng ra Nho giáo, từ đấy về sau định làm thường lệ. Văn miếu thờ Khổng Tử tại các lộ được Nhà nước cấp phu trông nom quét dọn. Đạo đức N ho giáo như lòng trung với vua, sự tiết hạnh của phụ nữ được cổ vũ, tuyên dương. Nho giáo ở thời Lê thế kỷ XV đến triều Thánh Tông Thuần Hoàng đế (1460- 1497) thì đạt tới đỉnh cao thịnh vượng.
Đến đời Lê Thánh Tông, diện mạo của N ho giáo đã rõ ràng với những đặc điểm khá cụ thể, dễ nhận biết. N gười xưa học Nho giáo có hai phép: học nghĩa lý và học từ chương. Học từ chương là học kinh nghĩa, thơ phú, văn sách, cốt để đi
thi làm quan. Cũng gọi là học khoa cử. Còn học nghĩa lý là học chuyên sâu vào huấn hỗ học, lý học, Hán học,…với mục đích dò tới nguồn gốc của N ho giáo.
Để tôn vinh N ho học, tôn vinh người đỗ đạt và để biểu thị lòng quý trọng kẻ
sĩ chân Nho của triều đình, Lê Thánh Tông cho dựng bia khắc tên họ những người đỗ Tiến sĩ từ khoa thi năm Nhâm Tuất (1442) đời Thái Tông trở đi đặt tại nhà Q uốc học.
Có thể thấy từ nửa sau thế kỷ X V, dưới sự bảo trợ của triều đình, hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng phát huy tác dụng và trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội. Phật giáo, Đ ạo giáo … cũng từ đó bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Và được kéo dài mãi ở Việt Nam cho đến tận cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ X X.
Xét về tính chất, thì Nho giáo Việt Nam từ Lê sơ cho đến cuối N guyễn chủ yếu vẫn là “Lý học” đời Tống.
Như vậy Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm, nhưng có
vị trí chi phối và phát triển cao nhất từ thế kỷ thứ 15 đến đầu thế kỷ thứ 20 được xem như là quốc giáo ở Việt N am, đến năm 1919 khoa cử nho học bị bãi bỏ.
I . TƯ TƯỞ NG TRIẾT HỌC C ỦA NHO GIÁO
1. Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : N gũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung H oa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo
1.1 Tứ Thư
Là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và K hổng giáo. Chúng bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận N gữ, Mạnh Tử.
- Đại học: Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước.
Sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của Khổng Tử.
Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chỗ chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều): cánh vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đ ại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (N ghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”).
- Trung Dung: sách Trung D ung do Tử Tư làm Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung D ung, Tử Tư dẫn những lời của K hông Tử nói về đạo
“trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các N ho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và M ạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
- Luận N gữ: là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và những lời nói của người đương thời, cách đây hơn 2500 năm, các học trò của nhà tư tưởng và triết học Khổng Tử đã cố gắng tìm tòi ghi lại từng mảnh rời rạc và từng câu chuyện rời rạc về cuộc đời và những lời dạy của ông. N hững ghi chép phần lớn dựa trên những bài thuyết giảng, sau này được tổng hợp lại thành sách “ Luận Ngữ”. Sách Luận N gữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của K hổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. N hư có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của K hổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
- Mạnh Tử: sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi M ạnh Tử và các môn đệ của ông như: Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những điều đối đáp của M ạnh Tử với các vua chư hầu, giữa M ạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như: học thuyết của M ặc Tử, Dương Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần: Tâm học và Chính trị học.
- Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. M ạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.
- Chính trị học: M ạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
1.2 N gũ Kinh
Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. M ột lần,
Khổng Tử hỏi con trai “học Kinh Thi chưa?”, người con trả lời “chưa”. Khổng Tử nói “K hông học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao” (sách Luận Ngữ).
- Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng
Tử. K hổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như N ghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
- Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. K hổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: “Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời” (sách Luận Ngữ).
- Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,… Đ ời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là H ào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
- Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của K hổng Tử.
Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ô ng nói, “Thiên hạ biết đến ta bởi kinh X uân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh X uân Thu này”. Đây là cuốn kinh K hổng Tử tâm đắc nhất. (X uân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra).
- Kinh Nhạc: do K hổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. N hư vậy lục kinh chỉ còn lại ngũ
2. Nội dung cơ bản của Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu – người lý tưởng này gọi là quân tử. Để trở thành người quân tử, con người
ta trước hết phải “tự đào tạo”, phải “tu thân”. Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải “hành đạo”.
2.1 Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức… để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và N gũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. K hổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
- Tam C ương: Tam là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành một dạ.
Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
Phu thê: Trong quan hệ chồng vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.
- Ngũ Thường: N gũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Nhân: Được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản qui định bản tính con người, chi phối mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội. Khổng Tử cho rằng nhân là lòng thương người (ái nhân); còn Mạnh Tử cho rằng nhân là lòng trắc ẩn. Nói chung, nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người.
Nghĩa: Được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm, bất kể làm điều đó có đem lại cho người thực hiện nó ích lợi gì hay không.
Lễ: Được hiểu là luân lý đạo đức, như ý thức, thái độ, hành vi ứng xử, nếp sống của mỗi con người trong cộng đồng xã hội, trước lễ nghi, trật tự, kỷ
cương.
Trí: Được hiểu là sự sáng suất nhận thức thấu đáo mọi vấn đề, hiểu đạo trời, đạo người, hiểu cả thiên hạ, biết sống hợp với nhân.
Tín: Được hiểu là lòng ngay dạ thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với nhau.
- Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”
Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng.
Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con.
- Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: Công – Dung – Ngôn – Hạnh.
Công: khéo léo trong việc làm.
Dung: hòa nhã trong sắc diện.
Ngôn: mềm mại trong lời nói.
Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
- Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là “con đường”, hay “phương cách” ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. “Đ ạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” (sách Trung Dung), tương đương với “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”. Đó chính là Ngũ thường, hay N gũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là “trung dung”. Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
- Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: “nhân – trí – dũng”. K hổng Tử nói: “Đ ức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi” (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay “dũng” bằng “lễ, nghĩa” nên ba đức trở thành bốn đức: “nhân, nghĩa, lễ, trí”. H án Nho thêm một đức là “tín” nên có tất cả năm đức là: “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. N ăm đức này còn gọi là N gũ thường.
- Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. N goài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức”, người quân tử còn phải biết “Thi, Thư, Lễ, N hạc”. Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
2.2 Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ – gia đình, cho đến lớn – trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). K im chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
- Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân – Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác” (sách Luận ngữ). N hân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: “Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?” (sách Luận ngữ).
- Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. “Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành” (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử – Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo,
chúng được tóm gọn lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
Tóm lại, quan điểm đạo đức- chính trị- xã hội của Nho giáo (K hổng – Mạnh) là xây dựng mẫu người quân tử (xem người quân tử là giai cấp thống trị). Muốn trở thành người quân tử không chỉ có tu thân, dù tu thân là gốc mà phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. M uốn hành động hiệu quả người quân tử thực hành đường lối nhân trị- cai trị bằng tình người, bằng sự yêu người,
coi người như bản thân mình và chính danh- cai trị sao cho vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ. Hạn chế lớn nhất của Nho giáo là xem nhẹ khoa học tự nhiên và lao động sản xuất, chưa hiểu được tầm quan trọng của pháp luật, xem nhẹ quần chúng nhân dân tức kẻ “tiểu nhân”…
10 Tiểu luận triết học phương Đông
- Cơ sở triết học phương đông trong lý luận y học cổ truyền phương đông về sức khỏe
- Tư tưởng triết học Nho giáo và sự ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa xã hội Việt Nam
- Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học nho giáo và triết học đạo gia ở Trung Quốc cổ đại
- Một số vấn đề thực tiễn và cơ sở lý luận đối với quá trình Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam
- Thực trạng nền kinh tế thị trường và phạm trù nội dung – hình thức
- Những nguyên lý về mối quan hệ phổ biến và thực tiễn
- Nội dung của tư tưởng triết học phương Đông thời cổ đại và ý nghĩa phương pháp luận
- Hãy nêu một nội dung của tư tưởng triết học phương Đông thời cổ đại và ý nghĩa phương pháp luận rút ra
- Nghiên cứu về sự giống và khác nhau giữa triết học phương đông và phương tây cổ đại
- Tìm hiểu về nét lịch sử cơ bản của sự hình thành phép biện chứng
- Những tư tưởng cơ bản của nho giáo và ảnh hưởng của nho giáo đối với kinh tế xã hội Việt Nam
- Những tư tưởng chính danh của Khổng Tử và giá trị của nó đối với việc tuyển chọn cán bộ công chức Việt Nam hiện tại
- Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Những ảnh hưởng của triết học Nho giáo về vấn đề con người và ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam
- Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo trong văn học dân tộc Việt Nam hiện nay
- Đặc trưng của triết học phương Đông. Sự khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây